Về vụ trấn yểm trên sông Tô Lịch
00:12:13 12.10.2015
Tóm
lược sự việc như sau :Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc
Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng
An Phú - Phường Nghĩa Đô - Quận Cầu giấy - HÀ NỘI đã phát hiện được di
vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông,
tạo thành một đa giác đều,tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai,
táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có
hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.
Sau
khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà
tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất
nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi
công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là
một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm,
cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều
giờ;. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống
như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay
tít.
Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên
xẩy ra ,gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12,là đội đă trực tiếp
thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công
nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên
tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên
đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại
công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không
đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.
Ngày 9/10/2001 những
người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định
của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời
để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục
mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho
5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch: Chỉ hơn 1 tháng sau,
Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.
Các nhà khoa học đã
có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả
dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên.
Giáo sư Trần
Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính
còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn
làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông
qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm
cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14,
thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc.
Sự
trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt
nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương
người cùng những hiện vật khác chăng.( Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn
nhắc đến sự tích âng Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam - Người
viết ). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây,
một người bạn của tác giả có cho biết : Đài truyền hình có phát tin
người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người
viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây
là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí.
Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?. Theo
thiển ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của
TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người
viết xin được chứng minh như sau : Trước hết nói về ý kiến của GS Trần
Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô
lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà
cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết " Tại
sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự
tích âng Dầu bà Dầu ", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý,
nhằm trấn yểm sự Báo thù của âng bà Dầu,�thì không có sự việc sông Tô
Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông
nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách
sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao
thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy
Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi
-Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ), Sư Vạn Hạnh..
Dĩ
nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô
Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp
lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị
tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo
Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống
Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông
nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có
dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy
bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ để bồi đắp thành
lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương
phủ . Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất
Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị
Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có
tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy
vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng
lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao
Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như
đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể
hoàn tất.
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân
tộc Việt nam. Đó là " Truyền thuyết Thành Cổ Loa " Tương truyền rằng khi
xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ.
Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc
đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong".
Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa ( Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).
Tới
đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp
đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không
thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?.
Qua
hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng
ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo
dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất
không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây
Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non
trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU...Theo định nghĩa của
môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó
khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ
những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ
trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những
antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng
có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía
Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô
Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây
trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa
phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí
nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền
liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra
đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch
này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã
sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới
gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà
nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng...chôn
để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền
còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc
chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt
Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.
Thời bấy giờ nước
Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý
số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép
Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở
núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn
áp bùa phép của Cao Biền.
Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng
sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác
phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là
của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà
Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ
vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự
thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất
liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây
giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho
tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi
tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp,
bấm huyệt ... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý
thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người
ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy
theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm
vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong
dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một
bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là
bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là
hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những
quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có
thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh
mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể
sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta
cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó, người ta có thể
dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một
Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1.
Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của
nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại
La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn
yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm
trong Truyền thuyết âng Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực
hiện chấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát
từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn
La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua
thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài
sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên
Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh
Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng
minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long
mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự
như thuật điểm huyệt trong đông y học.
Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi :
1.
Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong
đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ?
2. Tại
sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm
nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ
trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các
cọc trấn yểm lên.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ
như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu
vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với
Long mạch đi qua thành Đại la ?
4. Biện pháp khắc phục sự việc
trên như thế nào ?. Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa
Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa
chấn yểm đó xấu hay tốt ?.
Người viết bài này xin mạo muội lý
giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người
viết, vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được
cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng
kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng
ai.
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 -Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?.
Trong
thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là
một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là
chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á
đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội
tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể
tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ
trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát
hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có
thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh ,
Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện
rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là
Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh,
nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất
nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ
quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về
bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí
Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong
Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự
như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với
nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước
ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội
của nước ( nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ). Người viết chỉ nêu ra
một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình,
còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ
chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn
sống như thế nào ?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì
trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài
cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng
vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng
hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể
khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang
tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ
chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống.
Trở lại câu
chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở
phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại
nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí
không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất
dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn.
Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương
tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống
như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau
đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu
nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố
Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ
Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le ...Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần
bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ
NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền ( vốn được coi là
tổ sư của Phong Thủy ) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô
Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại ( mặc dù
chỉ là con mương nhỏ ). Theo người viết,nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì
ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết
khẳng định :Cao Biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự
sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị
Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói
riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được
các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai
lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn
đề này ở phần sau.
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên
nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người
viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi
tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí
bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa
xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một
điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung
quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân
đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu.
Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả
năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công
nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật "
Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu ", hay là hiện tượng cộng
hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây
dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công
trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.
Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở
đây là : Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ
NỘI ?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.
2.
Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,vùng
đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn
và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực
dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông
Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên ?.
Tiếp tục phát
triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị
bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm
được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng
đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên,
và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng
đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở
đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không
có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo
vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị
phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn,
làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục
bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất
quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn
khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính
chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không
có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là
trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở
Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng
cây trên núi Ngự bình song đều thất bại.
Như vậy, ta có thể kết
luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng
đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với
mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là
dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt
trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch,
các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ
số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô
Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành
được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con
người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi
Yên tử, Đền Kiếp Bạc ...Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh
thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI,
người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay
là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay
đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa...
Một dân tộc đã được
thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về
trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần
phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc
hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các
bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non
sông, đất nước.
3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 :Hậu
quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói
riêng và cả HÀ NỘI nói chung.Số phận của Long mạch sẽ như thế nào ?Đây
là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó.Người viết xin
mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn
đàn góp ý,bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được
hậu quả của Lịch sử.Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người
chúng ta .
Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao
biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông
Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính
thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng
từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện
);các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn
yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài
,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )...
Để
có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm,ta cần phải biết
rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của
nó.Từ xưa,việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý
,không được tiết lộ ra ngoài,sợ lộ Thiên cơ.Do vậy mà lý thuyết về sự
trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí,ma
thuật,không có tài liệu nào được truyền ra.Tuy nhiên theo nguyên lý
Thiên -Địa -Nhân là một,ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu
vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư
là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô
tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang
ao ước ,tìm kiếm.Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp.Bây giờ ta
trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc là một sự ứng dụng
rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương,Ngũ hành.Lý thuyết của Đông Y
về Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu
tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm.Tôi
chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của
mình.
HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.
1/HUYỆT : Là
nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt
động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những
nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường
gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ
từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra
ngoài,trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một
mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh
Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên
khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta
có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại
Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có
bệnh.
2/Kinh :Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các
đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường
Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất
mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh. 3/Mạch
:Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra
nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính
Gốc.
4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt , nhiều hơn Kinh, Mạch,
nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt ,chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó
giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện
theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng
chữ An lạc?
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.
*Nội
kinh là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng
phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh
liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh
hồn,Vía,Phách và thể xác.
* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ
xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.Ví dụ cụ
thể như :có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không
được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh
nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể
hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao
gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể
cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa
đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là
Thần bí.
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt.
Xin
nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các
giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ
huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt..
Trong Võ thuật còn
truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36
Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào
trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất
nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh
phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có
thể gây tàn phế , tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay
còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật
cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con
người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ
dùng lực phá hủy hệ thống Kinh , Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh
hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc,gắn
kết lục phủ , ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến
tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo
Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.
Theo
nguyên lý "Con người là tiểu Vũ trụ "thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản
ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu
trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho
Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam
tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào
và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành
phần khác làm thành phần của mình.
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm. Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm. Kinh Tam tiêu có �hiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu. Các
đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng
với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não
trái ). Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm.
Từ
Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp
nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long ,mạch như sau:
Thuyết
Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có
quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ
có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ).
1/Về Thiên
:Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng ) trên các đỉnh
núi cao.Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người.Sự
tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian,với con người khác
nhau.Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại
diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan
niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có
điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).Phải chăng 9 Sao và Hạn
(La hầu,Thổ tú,Thủy diệu,Thái bạch,Thái dương,Vân hớn,Kế đô,Thái âm,Mộc
đức và Tam kheo,Ngũ hộ,Thiên tinh,Toán tận,Thiên la,Địa võng,Diêm
vương,Huỳnh tuyền )ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con
người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong
Hệ Mặt trời đối với con người.Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng
của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất.
Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.
2/Về
Địa :Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long )chảy theo các mạch nước,tụ
lại,và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng ).Ta thử suy luận một
chút về danh từ THĂNG LONG :Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG.ĐÂY MớI
THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại
Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG ).Ta
cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về
sau này là Khí Âm -Địa khí .
3/Về Nhân :Có thể xác định được Âm phần,Dương phần,Họa,Phúc,Mệnh,Thân của từng con người.
Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ.
Các
bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau :Trước hết là các dãy núi cao vút
của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình,tới dãy Tam đảo ,dọc theo sông Tô
lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa,kéo dài đến sông Đuống,sông Thái
bình,ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long.Ta nối tất cả các điểm
trên thành một đường.Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng
bằng Bắc bộ.Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc
Dương.Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương .Các Huyệt nằm
trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.
Bây giờ ta tiếp tục
đánh dấu những địa danh sau :Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót
vót của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình ,đi tới dẵy núi Ba vì,qua cầu
Hàm Rồng,theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển.Nối các địa danh
đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc
bộ.Nhánh Bạch hổ thuộc Âm,do vậy Long mạch này có hành khí Âm.Các Huyệt
nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm
Đến đây ta đã có thể
hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh
Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của
người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều.Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền
về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.Theo các cổ
thư chữ Hán ,cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây .Đây là độ số
của Lạc thư.Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc,theo đúng độ
số của phương Tây.Tuy nhiên ,theo hiểu biết của người viết và kết hợp
với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất
Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng
vương ) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.Theo người
viết,trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa
vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác.Khi đặt độ số
của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều
thuận kim đồng hồ .Theo chiều từ phương Bắc,Đông Bắc,Đông,Đông
nam,...tới Tây,tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau
:1-8-3-2-7-4-9-6.
Ta vẩn biết rằng :1 -là hành Dương Thủy. 6 -Là hành Âm Thủy. 8 -Là hành Âm Mộc. 3 -là hành Dương Mộc. 2 -là hành âm Hỏa. 7 -là hành Dương Hỏa. 5 - là hành Dương Thổ. 10 -là hành Âm Thổ. 4 -là hành Âm Kim. 9 -là hành Dương Kim.
Theo
chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau
:Thủy (6-1 )sinh Mộc (8-3 )sinh Hỏa (2-7 )sinh Thổ (10-5 )sinh Kim (4-9 )
và lại trở về hành Thủy.Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết
trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày
hôm nay.Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này,thì
giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.
Trở
lại vấn đề trên sông Tô lịch,sau khi Cao biền Trấn,yểm dòng sông cứ
càng ngày càng nhỏ lại,kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau
này,dòng sông Tô,trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu,nay bị chặn lại
từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng.Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng
chẩy ngược lại.Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường
NGHĨA Đâ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI,theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện
trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy ) chẩy ra sông Nhuệ và cuối
cùng mới đổ ra lại sông Hồng.Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch
đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long
như ngày xa xưa ).Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần
lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh
ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại ,nhánh bạch hổ từ xưa
cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường
hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng
(Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh
long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh long
bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo
đường nhánh Bạch hổ.Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau
này,Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay
vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch
hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải qua hơn một ngàn
năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các bậc
hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch
hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
Tới câu
hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả
năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối
trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất
nước.Các câu hỏi đó là :Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền
lên,Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ
NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ???Có thể hàn lại Long mạch như
Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?Khi Long mạch đã được phục hồi
sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ?Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở
đất như ngày xưa không ? Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề
này.Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả
những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở,thương yêu Đất THĂNG LONG
ngàn năm văn vật,là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG
LONG -HÀ NỘI.
Trong bài viết,tôi có sử dụng một số Tài liệu của
Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THâNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG -Nghệ an , Ẩn
sĩ Lý Thiên Hương -Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh
PHÚ THỌ -Xin trân trọng cảm ơn
Tôi đã xác minh lại nguồn tin
này;Theo Thượng tọa Thích HUỆ Xướng -Chùa Giác Lâm _Quận Tân bình
-TP.HCM :Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên tịch khoảng hơn một tháng
sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch,nguyên nhân chết theo
Y học là xuất huyết não.Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là chủ trì chùa
Hương.
Giải thích thêm: Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở
riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm.Khi muốn tác động vào một
Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác
dụng.Khi dùng thủ thuật Trấn (đè lên )Yểm (Chôn xuống )cho thay đổi kết
cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu
biết phải vô cùng chính xác.Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ
biến rộng rãi nên thất truyền lần lần . Mà đó cũng là một điều may mắn
cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi
về đâu?Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có
khả năng đó.Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử -Tất
nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết,những sự việc được ghi
nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực .Tuy nhiên ,không thiếu
dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.
Tôi xin nêu
thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này.Đó
là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó.Theo nhận xét của
riêng người viết,khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí
là Dương kim và độ số của nó là 9.Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến
hành trấn yểm,Cao biền cũng biết rất rõ điều đó ,chỉ có sai lầm về độ số
của phương Tây .Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay,phương Tây
thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7.Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư
chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo.Theo người
viết được biết,tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa,các nhà Phong
thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong
thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.Như vậy theo người
viết,phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác.Lạc
thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc
Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà,Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ.Để
có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch,theo thiển ý của người
viết,nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy
luật Âm dương Ngũ hành.Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9
cột sắt,hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút
đạo Bùa .Theo những tin tức gần đây nhất,sự phát sinh các việc kỳ lạ như
đã nêu ở trên,cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra.Như vây ta thấy
rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa.Nguyên nhân là Khu vực đó qua
thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm ),luồng Nguyên khí
đã có sự thay đổi,cũng không loại trừ đã có sự trấn,yểm lại của một số
nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở
những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh.Ta
cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không ):Kể từ
ngày đạo Bùa được Khai mở,vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển
rất mạnh mẽ.Từ rất lâu đời,các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu,nay
đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.
(dẫn theo Vietscience)
|