Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

NGUYÊN TẮC BỐ TRÍ CÁC TIẾT MINH


                                                                                                                                      Trần Mạnh Linh
Trong địa lý dương trạch, khi bố trí các tiết minh đều tuân theo một nguyên tắc chung là “nhất vị, nhị hướng”.
Vị tức là nơi bố trí các tiết minh trong nhà được chia theo cửu cung dựa trên tâm điểm cực và khí trường của ngôi nhà (*)
Hướng là phương các tiết minh quay về được chia theo bát quái (8 quẻ) dựa trên hướng nhà và phương vị từ trường của trái đất.
Để hiểu rõ ràng hơn ta sẽ đi vào xem xét nguyên tắc bố trí một số tiết minh cơ bản sau:
1.  Nguyên tắc bố trí giường ngủ (Sàng)
Như đã nêu trên việc bố trí giường ngủ cũng tuân theo nguyên tắc chung là nhất vị nhị hướng. Nếu có thể đưa ra một thang điểm mang tính so sánh tương đối thì vị tức là cung chiếm ~ 60%. Tức 6 điểm, hướng chiếm ~ 40% tức là 4 điểm. Như thế thì việc bố trí giường ngủ có thể rơi vào 1 trong 4 trường hợp sau:
Cung (6 điểm)
Hướng (4 điểm)
Tổng cộng
1Cung tốtHướng tốt10 điểm
2Cung tốtHướng xấu6 điểm
3Cung xấuHướng tốt4 điểm
4Cung xấuHướng xấu0 điểm
Ghi chú:
1)       Khi bố trí vị trí giường ngủ cần lưu ý bố trí nằm trọn vẹn trong cung tốt. Trường hợp do diện tích của nhà quá hẹn hay do kết cấu đặc biệt của nhà mà giường ngủ phải bố trí nằm ở 2 cung (**) thì:
-         Nếu trên ¾ giường ngủ nằm ở cung tốt, dưới ¼ nằm ở cung xấu, thì giường ngủ vẫn ở cung tốt.
-         Nếu trên ¾ giường ngủ nằm ở cung xấu, dưới ¼ nằm ở cung tốt, thì bị coi là bố trí ở cung xấu.
-         Nếu dưới ¾ giường ngủ nằm ở cung tốt, trên ¼ giường ngủ nằm ở cung xấu hoặc ngược lại thì đều là tốt xấu xen lẫn, tham bán cát hung.
2)       Về hướng và giường ngủ thì hướng của đầu giường được coi là hướng toạ, hướng cuối giường (hướng chân đạp) mới được coi là hướng của giường ngủ. Do đó khi nói hướng giường ngủ tốt xấu là nói hướng của cuối giường.
(*) Khí trường của ngôi nhà là khí do phép xác định tâm cực của nhà tạo nên. Phạm vi của nó có thể trùng hoặc không hoàn toàn trùng với hình thể và diện tích của ngôi nhà. Độc giả có thể tìm hiểu kỹ hơn trong các tài liệu viết về cửu cung trạch đồ hoặc trong một số khác của tập san này.
(**) 2 cung ở đây được hiểu là cung tốt và cung xấu. Nếu giường ngủ nằm trên 2 cung, thậm chí là 3, 4 cung mà cũng tốt thì vẫn được coi là cung tốt. Ngược lại bị coi là bố trí ở cung xấu.Vì vậy trường hợp ghi chú trên chỉ dùng cho trường hợp phải bố trí giường ngủ ở cả 2 cung tốt xấu xen lẫn.
2.  Nguyên tắc bố trí cầu thang (thê)
Cũng như giường ngủ, việc bố trí cầu thang cũng theo nguyên tắc chung là nhất vị nhị hướng. Tuy nhiên khi nói đến vị trí của cầu thang thì lại lấy vị trí của động khẩu làm chính yếu, vị trí của lai mạch làm thứ yếu. Động khẩu là phần đầu mút của cầu thang (khoảng từ 1 – 3 bậc); Lai mạch là phần dẫn khí các bậc còn lại. Vì vậy khi xét đến việc bố trí cầu thang là phải xét đến hệ 3 cấp động khẩu, lai mạch và hướng. Để làm đơn giản hoá vấn để có thể lập một thang điểm so sánh tương đối như sau:
Động khẩu 5 điểm
Lai mạch 2 điểm
Hướng 3 điểm
Tổng cộng
1
Động khẩu tốtLai mạch tốtHướng tốt10 điểm
2
Động khẩu tốtLai mạch xấuHướng tốt8 điểm
3
Động khẩu tốtLai mạch tốtHướng xấu7 điểm
4
Động khẩu tốtLai mạch xấuHướng xấu5 điểm
5
Động khẩu xấuLai mạch tốtHướng tốt5 điểm
6
Động khẩu xấuLai mạch xấuHướng tốt3 điểm
7
Động khẩu xấuLai mạch tốtHướng xấu2 điểm
8
Động khẩu xấuLai mạch xấuHướng xấu0 điểm
Ghi chú:
Bố trí động khẩu phải đảm bảo 3 nguyên tắc thụ khí là:
-         Tiếp mạch (3 bậc)
-         Thừa khí (1 bậc)
-         Khí mạch kiêm thu (2 bậc)
3.  Nguyên tắc bố trí bếp (Táo)
Bố trí bếp cũng theo hệ 3 cấp là vị (cung); Lục diệu (sơn); Hướng. Vị ở đây cũng là cung tốt như đã nêu ở phần giường ngủ và cầu thang. Lục diệu tức là 6 sao bố trí trên 24 sơn theo sơn chủ của ngôi nhà, nên gọi tắt là sơn. Hướng là chỉ hướng mặt bếp (không phải lưng bếp), tức là hướng ngược lại hướng ngược lại với hướng của người đứng đun nấu.
Cũng theo của bếp như sau: như giường ngủ và cầu thang, ta có thể lập một thang điểm so sánh tương đối theo hệ ảnh hưởng 3 cấp.
Động (5 điểm)
Sơn (*) (3 điểm)
Hướng (2 điểm)
Tổng cộng
1
Cung tốtSơn tốtHướng tốt10 điểm
2
Cung xấuSơn xấuHướng xấu0 điểm
3
Cung tốtSơn tốtHướng xấu8 điểm
4
Cung tốtSơn xấuHướng tốt7 điểm
5
Cung tốtSơn xấuHướng xấu5 điểm
6
Cung xấuSơn tốtHướng tốt5 điểm
7
Cung xấuSơn tốtHướng xấu3 điểm
8
Cung xấuChữ xấuHướng tốt2 điểm
Ghi chú:
Sơn tốt ở đây không phải là chỉ lưng bếp mà là chỉ vị trí 24 sơn của ngôi nhà ra sao tốt trong hệ Lục diệu (là sao Nhất long và Tứ hổ) còn gọi là chữ tốt. Trong hệ ảnh hưởng 3 cấp ở đây không xét đến toạ sơn của bếp mà chỉ xét đến hướng bếp. Hướng bếp cần phải tốt tức là quay về hướng Sinh khí, Thiên y, Diên niên hay Phục vị. Còn toa sơn của bếp lại thường phải quay về các hướng xấu như Tuyệt Mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát, hoạ hại mới là toàn mỹ.
4.  Nguyên tắc bố trí bàn thờ.
Nguyên tắc bố trí bàn thờ cũng tương tự nguyên tắc bố trí giường ngủ đã trình bày ở trên. Trong đó hướng của bàn thờ là hướng quay ra đối diện với hướng người thắp hương hành l

LOẠI BỎ KHÍ XẤU CÒN SÓT LẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI CHỦ TRƯỚC CỦA NGÔI NHÀ


Nó là một loại khí còn sót lại bám trên những đồ vật, tường nhà mà người chủ trước để lại. Trước khi mua nhà hoặc ký hợp đồng thuê nhà, hãy tìm hiểu về những người chủ cũ, cho dù bạn thuê mướn chỉ trong một thời gian ngắn hoặc lâu dài.
Khí và bệnh tật
Khí âm của những người chủ trước bị bệnh vẫn còn vương lại ở trong nhà, đặc biệt nếu người đó là bệnh nhân tâm thần: bệnh tật có xu hướng tạo ra khí âm rất nặng. Tường, sàn và trần nhà vẫn còn phảng phất những nỗi ưu tư, bệnh tật và bất hạnh của họ. Những nơi này cần phải làm sạch để năng lượng mới tràn vào xua tan năng lượng cũ.
Khí và sự giận dữ
Khí âm thuộc loại giận dữ và hung bạo sẽ còn vương lại nếu như người chủ trước có cuộc sống đầy bạo lực. Đây là những xúc cảm dữ đội vô tình bám dính vào tường và trần nhà. Đôi khi tẩy rửa loại khí này bằng cách cạo và sơn lại cũng không có tác dụng. Trường hợp này xảy ra khi nhà đóng cửa suốt, đặc biệt khi nhà treo màn dày, nặng nề và tường sơn màu tối. Khí âm rất dễ lẫn khuất vào những đồ vật như vậy.
   Khi những khí âm loại này có tồn tại trong nhà, bạn hãy xua tan chúng bằng cách dọn dẹp, sơn sửa và làm sạch vùng không gian đó càng nhanh càng tốt.Có những phương pháp rất hiệu quả để làm sạch vùng không gian và quét sạch năng lượng âm còn sót lại. Đó là dùng những vật kim loại như chuông, chén nhạc được chế tạo đặc biệt bằng 7 kim loại, tượng trưng cho 7 luân xa trong cơ thể con người. Những thứ này sẽ là công cụ mạnh mẽ để xua tan năng lượng âm. Hãy treo những vật này lên và học cách gõ để âm thanh của chúng hấp thụ năng lượng âm. Chính sự hòa âm của gỗ và kim loại, kim loại và kim loại làm chúng trở nên mạnh mẽ.
Khi tìm mua nhà mới, hãy cẩn thận với những dấu hiệu như bị tróc sơn. Đừng bao giờ để bị ảnh hưởng bởi năng lượng còn sót lại của người chủ cũ. Dọn dẹp, làm sạch và thông thoáng ngôi nhà để xua tan năng lượng âm cũ còn vương lại.
       Vì mọi vật thể đều phát xạ. nhiều người lầm  tưởng rằng bức tường xây là một khối đặc, thực tế là không như vậy sự vận động của các phân tử, nguyên tử đều có khoảng cách của nó, nếu đưa chúng lên kính hiển vi soi thì ta thấy chúng cách nhau rất xa. cho nên những khí xấu sẽ tồn tại trong đó.
bUILDb

GƯƠNG – VỊ THUỐC CỦA KHOA PHONG THUỶ

Gương một đồ dùng thông thường trong gia đình nhưng lại được gọi là một vị thuốc của khoa phong thuỷ?.

GƯƠNG – VỊ THUỐC CỦA KHOA PHONG THUỶ
Gương một đồ dùng thông thường trong gia đình nhưng lại được gọi là một vị thuốc của khoa phong thuỷ?. Với những người không nghiên cứu văn hoá Phương Đông, cảm xạ học hay các phái môn khác…thì thấy nó chỉ như những vật dụng thông thường. Nhưng nếu đã có dịp nghiên cứu hay hiểu biết sâu thì mới thấy đáng quan tâm lắm bởi cái “dụng” của nó thật phong phú. Gương có mặt trong hầu hết các ngành vật lý, thiên văn, y tế, giao thông, xây dựng…kể cả ngành phục vụ vui chơi giải trí và nhất là khoa phong thuỷ.
Gương đã được ứng dụng rộng trong nhiều lĩnh vực do tính chất đặc biệt của nó tính phản xạ. Gương có những đặc tính thú vị nhất là “tính thuận nghịch” về sức mạnh của nó. Ngoài việc lưu tâm nó là vật dễ vỡ cũng phải hiểu rằng nó là vật ta không thể tuỳ tiện sử dụng, di chuyển một cách cẩu thả hay xem nhẹ được. Ở đây tác giả muốn đề cập đến một cách sơ lược về tính hai mặt của nó để bạn đọc tham khảo và có những lưu tâm khi sử dụng, tránh những đáng tiếc không nên có:
1. Tính tích cực:
+ Dùng trong sinh hoạt vì ít ai không soi mình trong gương một lần trong ngày.
+ Dùng để trang trí trong xây dựng, trong các khu công cộng các khu vui chơi giải trí.
+ Dùng thu ánh sáng: với những nhà họp thiếu ánh sáng thì dùng gương đặt ở những vị trí hợp lý thu được ánh sáng tự nhiên hoặc nhân tạo làm cho căn phòng có cảm giác rộng hơn và có chiều sâu. Dùng gương hội tụ ánh sáng thiên nhiên lấy năng lượng sử dụng cho các ngành công nghiệp ứng dụng như pin mặt trời…
+ Dùng chuyển chiều, phân ly hay hội tụ ánh sáng, nguồn sáng. Được ứng dụng rất nhiều trong các ngành công nghiêp: vật lý, thiên văn, y tế, giao thông (như kính thiên văn, kính tiềm vọng các dụng cụ y tế…)
+ Đặc biệt trong khoa phong thuỷ thì nó là một công cụ, một “vị thuốc” – một yếu tố cần và rất cần trong việc phân hoá, khắc phụ, hoá giải hay cải tạo những điểm xấu những bất lợi khiếm khuyết trong phong thuỷ như:
-   Dùng gương hội tụ ánh sáng thiên nhiên hay nhân tạo chiếu vào những khu vực tối những góc chết, những hành lang cụt thiếu ánh sáng làm giảm bớt sự tối tăm phân hoá bớt âm khí, cải tạo trường khí.
-   Dùng gương để phản chiếu hoặc đẩy lùi các luồng sáng, khí, từ trường, năng lượng xấu phóng tới.
Hoá giải các bất lợi trong phong thuỷ chống lại các vật nhọn các góc cạnh, đầu hồi nhà, dầm xà cột, mép cửa (của cửa mở vào phía trong). Một tấm gương cũng là một sự đề phòng tốt nếu lối vào nhà ta đối mặt với cửa của hàng xóm.
-   Dùng gương để khắc phục căn phòng nhỏ hẹp hoặc khuyết góc (nhất là nhà chữ L). Tạo cảm giác căn phòng vuông vắn rộng và có chiều sâu nếu bố trí để tấm gương (tương đối to có thể là cả một mảng tường) ở vị trí thích hợp của căn phòng.
-   Gương rất có giá trị trong việc nâng cường độ hữu dụng cho quẻ dịch khoán lên nó (dùng trong hoá giải chữa bệnh…)
2. Những mặt tiêu cực:
+ Gương cũng như các đồ vật khác  theo lý luận của cảm xạ học thì nó cũng là vật thu năng lượng (vì tất cả các vật dù bằng chất liệu gì nó đều có sự thu và phát năng lượng, để tồn tại để giao lưu có thể chúng ta mới nhận biết được sự hiển diện những đặc trưng, tính chất của nó thông qua việc đo, cảm nhận được năng lượng, sóng năng lượng của chúng. Tất nhiên các vật khác nhau mức độ thu hay phát năng lượng cũng sẽ khác nhau).
Nhưng gương là vật thu cả năng lượng xấu vì bản thân nó không có sự phân biệt tốt xấu trừ khi ta cung cấp chốn một thông điệp như khoán quẻ vẽ các quẻ dịch để “chấn, yểm” ví dụ như gương bát quái…Mà có thu ắt có phát để nó cũng tự cân bằng của nó. Vì vậy, gương mà mỗi nhà vẫn thường sử dụng cũng nên thỉnh thoảng làm vệ sinh cho nó bằng nhiều cách như lau chùi bằng giẻ, xả năng lượng xấu bằng phương pháp cảm xạ v.v. để tẩy rửa, xả bớt những năng lượng xấu tích tụ trong đó hạn chế tình trạng nhiễm năng lượng xấu của gương tới người sử dụng.
Đối với gương cổ hay các gương có bề mặt dầy về thời gian khi sử dụng hết sức lưu tâm vì bản thân nó được hấp thụ rất nhiều năng lượng xấu lẫn tốt. Nhân đây tôi xin nêu hai thông tin như là phần minh chứng cho điều đó:
A/ Trong một số của tạp chí “Thế Giới Mới” mà một lần tôi có dịp được đọc có nói về một chiếc gương cổ kỳ lạ bởi các chủ nhân của nó cứ lần lượt qua đời bằng nhiều cách khác nhau mà đều là sau khi mua chiếc gương đó một thời gian. Sau vài cái chết bí ẩn như vậy người ta mới để ý tìm hiểu nguyên nhân và cuối cùng phát hiện được nguyên do chính là chiếc gương cổ mang nặng “sát khí” mà nó đã hấp thụ tự lâu, khi năng lượng xấu đủ mạnh nó đã phát huy tác dụng. Sau khi phát hiện được giá trị nguy hiểm của chiếc gương này người ta phải lập tức tiêu huỷ ngay.
B/ Trong một lần khác ở lớp cảm xạ nâng cao tôi được nghe một chị bạn kể lại câu chuyện có thật về tác hại của chiếc gương và cũng vì nhân duyên được đọc bài báo về chiếc “gương cổ” trên mà chị đã tự chữa bệnh được cho con mình.
Chị có ba đứa con, nhà chị ở trên đường Bà Triệu đối diện với Viện mắt trung ương. Tự nhiên có một thời gian dài cháu lớn (con trai của chị) sáng nào khi ngủ dậy mắt cũng đầy ghèn. Lúc đầu chị không chú ý lắm, cứ nghĩ là cháu bị đau mắt thông thường.
Sau cứ thấy tình trạng này kéo dài chị cho cháu đi khám bác sĩ mắt thì không ra bệnh. Chị lại nghĩ hay cháu ăn uống linh tinh, kém ăn do tỳ vị yếu nên khai khiếu ra mắt mà mắt cháu có ghèn như vậy, chị lại đưa cháu đi khám chuyên khoa thì tỳ vị đều tốt không có vấn đề gì, bằng nhiều cách qua nhiều bác sĩ đều không tìm được nguyên nhân và cách chứa. Nản quá chị đành để vậy (chỉ vì thấy ghèn mắt khi cháu mới ngủ dậy chứ trong ngày không thấy có). Rồi thời gian cứ trôi đi cho đến khi chị học lớp cảm xạ và bắt gặp được bài viết về chiếc gương cổ trong tạp chí thế giới mới (như đã nêu ở trên) chị đã liên tưởng ngay tới chiếc gương nhà mình đặt trong phòng, đối diện với giường ngủ của con trai chị. Vì nhà chật chị không thể chuyển chiếc tủ có gương đó đi nơi khác được nên mỗi tối trước khi đi ngủ chị lấy một tấm vải sẫm màu tương đối dầy che chiếc gương lại. Và một điều thật tuyệt vời: Mỗi sáng dậy chị sung sướng nhìn đôi mắt của con trai không còn bị những cục ghèn như trước nữa.
Tuy nhiên hai tình huống nêu trên không phải là trường hợp phổ biến nhưng nó cũng phần nào phản ánh phần chưa tích cực (mặt trái) của gương, và nhân dây tác giả cũng in đóng góp thêm một số hiểu biết khác và quan điểm của mình khi sử dụng gương nên cần lưu ý như sau:
+ Không nên để gương trong phòng ngủ, nhất là để gương đối diện hay chiếu tới giường. Vì lúc ngủ là cơ thể ở trạng thái giảm mọi sự hoạt động kể cả hoạt động tự vệ (nói cách khác là cơ thể yếu và không có sự đề phòng) do khả năng chống đỡ những tác động của ngoại cảnh của môi trường xung quanh là rất hạn chế mà gương là vật không có ý thức phân biệt tốt xấu nó phản xạ lại tất cả những gì mà nó thu được.
+ Không nên đặt bàn làm việc đối diện với gương như vậy sẽ tạo thế ta luôn phải đối mặt với chính mình, mình luôn chỉ nhận thấy mình nên khả năng sáng tạo kém, dễ ngộ nhận và phiến diện.
+ Không nên treo gương ở bất cứ tư thế nào cũng bị cắt mất phần đầu người đi vào hay đi ra.
+ Không nên sử dụng những gương đã qúa cũ, hoen ố vì bản thân nó dễ tàng chứa những năng lượng xấu, những tà khí mà không cách gì gột rửa sạch được. Có lẽ đó cũng chính là nguyên do mà các cụ ngày xưa hay bảo con cháu không cho những đứa trẻ còn nhỏ soi gương vì sự chúng nhiễm tà chăng?
+ Không nên treo gương vào vùng có luồng khí tốt hay nơi có luồng sinh khí hướng tới, nó cũng sẽ làm hạn chế luồng khí tốt tràn vào nhà.
+ Một tấm kính nhiều khi cũng trở thành gương khi mặt sau được phủ lớp nhũ mầu như các vật liệu xây dựng mới ngày nay, vì vậy nhiều nhà lắp kính thấy có các cánh cửa gỗ cũng phải lưu tâm liệu có vô tình làm giảm hay chặn đứng các luồng khí tốt đến hay không.
Gương được xem như vị thuốc của khoa phong thuỷ nó cũng giống một số đặc tính và lưu ý khi dùng như thuốc thông thường ở chỗ bệnh và liều lượng hợp lý. (Nói cách khác là cách dùng sao cho có hiệu quả chữa bệnh mà không gây phản ứng phụ). Nên việc hiểu công dụng, tính chất và nguyên lý của nó xem ra không phải là việc làm thừa vì gương dùng cho cả bên trong lẫn bên ngoài nhà, thuộc vào cánh dùng, dùng bên trong nhà với nhiều mục đích: cân bằng hay bổ sung khiếm khuyến của phần lồi lõm, phản chiếu những ảnh sông hồ vào nhà để hấp dẫn sinh khí…Dùng bên ngoài có tác dụng phản hồi những tà khí hay những mũi tên độc những đòn giông của nhà đối diện, những con đường, cột đèn…”bắn” vào cửa nhà.
Khi sử dụng gương xin lưu ý cả những điểm sau: (có thể coi đó như là nguyên tắc vậy)
- Gương dù lớn hay nhỏ đều có tác dụng. Nhà nhỏ nên dùng gương nhỏ, nhà lớn như các cao ốc các “Buidinh” phải dùng gương lớn mới đủ công lực.
- Gương càng lớn càng có hiệu lực hơn.
- Không nên dùng những loại gương mờ, gương vỡ,, hay từng miếng nhỏ gắn lại (vì như vậy không những giảm hiệu quả của gương mà lại dễ gây phản ứng phụ, để năng lượng xấu lọt lưới…)
- Gương treo trước cửa ra vào phải ở độ cao mà không cắt mất phần đầu người trong gương.
Trên đây là một chút kiến thức tuy còn hạn hẹp do quá trình học tập và thu lượm được còn ít song vẫn mạnh dạn đem ra đóng gó với các đồng môn và rất mong được sự góp ý sửa đổi bổ sung phần còn khiếm khuyết.

BuildBN ST

PHONG THUỶ TP. HÀ NỘI

     
   Huyền Phúc  
Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến , Một vùng đất hội tụ địa linh nhân kiệt.thật là một vùng đất phong thuỷ tốt, cây cối xanh tươi, nguồn nước trong lành.
Trong sách cổ có ghi :
Thăng Long đệ nhất đại huyết mạch ( Đế vương quý địa )
Giao châu hữu chi địa  (đất Giao Châu có một ngôi đất)
Thăng Long thành tối hùng Thăng Long tối hùng mạnh)
Tam hồng dẫn hậu mạch (ba con sông lớn dẫn hậu mạch, tiếp khí cho mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà).Song ngư trĩ tiền phương (hai con cá dẫn đường, chính là bãi Phúc Xá ngoài sông Hồng)Tản Lĩnh trấn Kiền vị (núi Tản Linh trấn tại phương Kiền – tây bắc)Đảo sơn đương Cấn cung (núi Tam Đảo giữ phương Cấn – Đông bắc)
Thiên phong hồi Bạch hổ (nghìn ngọn núi quay về Bạch hổ)
Vạn thủy nhiễu Thanh long (muôn dòng nước từ ba con sông Thao, Lô, Gâm đều tụ lại tại ngã ba Việt trì, chảy về nhiễu Thanh long)Ngoại thế cực trường viễn (thế bên ngoài rất rộng và xa, tất cả  núi non trên suốt mạch sông Hồng từ Việt trì đến Ninh Bình đều chầu về)Nội thế tối sung dong (thế bên trong rất mạnh mẽ, đầy đặn)Tô giang chiếu hậu hữu (sông Tô lịch dẫn mạch từ phía sau, bên phải)Nùng sơn cư chính cung (núi Nùng đóng tại chính cung)Chúng sơn giai củng hướng (tất cả núi non đều hướng về rất đẹp)
Vạn thủy tận chiều tông (là nơi tận cùng, hợp lưu của mọi dòng nước từ thượng nguồn dẫn khí mạch về)Vị cư cửu trùng nội (là nơi ở của vua chúa (cửu trùng), đất làm kinh đô)Ức niên bảo tộ long (có thể bền vững tới 10 vạn năm)Cầu kỳ Hổ bất bức (…….)
Mạc nhược trung chi đồng (…….)
Bất kỳ một người Hà Nội nào đã yêu mảnh đất này không thể không một lần đến Quốc Tử Giám và đọc dòng chữ có ghi trên tấm biển “ Hiền tài là nguyên khí của đất nước”
Theo quan niệm của địa lý phong thuỷ thì Hà Nội được bao bọc trên vị trí giống như ngồi trên một cái ngai có ba bên là núi:
-                     Bắc 坎☵ là núi Nghĩa Lĩnh, nơi có lăng mộ Vua Hùng,
-                     Đông bắc 艮☶ là núi Tam Đảo kéo dài đến Quảng Ninh tạo thành  cánh tay Thanh Long,
-               Tây bắc 乾☰ là núi Ba Vì kéo dài tận Thanh Hoá tạo thành cánh tay Bạch Hổ.
Ngôi thành đầu tiên do Lý Bí khởi công xây dựng năm 543 tại cửa sông Tô (chỗ Hàng Buồm hiện nay) Năm 621 xây lại (sử không chép là do ai xây) Năm 767 xây dựng lại và được gọi là La Thành, năm 866 tiếp tục được xây lại và được gọi là thành Đại La.
Và rồi là thành Thăng Long năm 1010 khi có chiếu rời đô của Lý Công Uẩn và sau đó đến  triều Nguyễn có sửa đổi nhưng cơ bản vẫn giữ nguyên căn bản. phía Bắc 坎 ☵ Hồ Tây, Trúc Bạch-phía tây 兌☱ có sông Tô (nay là Lạc Long Quân)-phía nam篱☲là sông Kim Ngưu-phía đông震☳ sông Nhị hà (sông Hồng)
Hà Nội có hai rồng chính. một là sông Hồng, sông Tô (thuỷ long) hai ,là đê sông Hồng và đê La Thành (sơn long)
Còn núi ở vường  Bách Thảo là khán sơn, tay long bắt nguồn từ Tam Đảo ra đến Hòn Gai, tay Hổ từ  Ba Vì ra đến cửa Thần Phù (Thanh Hoá) Chu tước có hồ Bảy Mẫu, Huyền Vũ có núi Nghĩa Lĩnh đền Hùng.
Về trung tâm thành Nội (còn gọi là Hoàng Thành) Bắc坎☵ sông Tô (Phan Đình Phùng) Tây兌☱ có chùa Nhất Trụ, phía Nam篱☲ có Trần Phú, Đông震☳ có Lý Nam Đế. Tử Cấm Thành (dinh thự của vua) Bắc 坎☵ Hoàng Văn Thụ, Tây兌☱Hoàng Diệu,  Đông 震☳Nguyễn Tri Phương. Từ Cột Cờ – Đoan Môn đến điện Kính thiên theo trục Tý 子Ngọ午 (Trúc Bạch- Kim Liên) .
Còn về cách nhìn theo Kinh Dịch: Thái cực đường chạy vòng quanh thành, tả có sông Hồng, hữu có sông Tô và hồ Lãng Bạc, sông Nhị Hà chính là lưu thuỷ, hoàng thành 4 mặt đều nhau tạo thành tứ tượng, ngoại thành có bờ đê (sơn long) cũng có thể gọi là hậu hổ (thế dựa) hai cửa ô Lương Yên và Thịnh Hào là hai cạnh của vòng thái cực đi vòng ra 4 cửa ô Cầu Giấy-Thuỵ Chương-Yên Phụ-Thịnh Hào, là nhưngc góc đều nhau là tyhái cực ra đến hồ Bẩy  Mẫu trước cung điện. Tả có ngọc Sơn-Hoàn Kiếm-Cầu Dền, hữu có Giảng Võ, Thành Công-như vậy có tay long dài , tay hổ ngắn tạo thành thế tương nhượng.
Theo  bát quái: phương Càn乾☰ có Giảng Võ đường, chùa Trấn Quốc, làng Hữu tiệp (Láng Trung) phương Khảm坎☵ có tây Hồ, phương Cấn艮☶   có Nhật tân, Quảng bá, phương Chấn震☳ có chùa Thạch Cổ, Ô Quan Chưởng, Cửa Bắc, Hàng Chiếu, phương Tốn巽☴ Hoàn Kiếm, nhà hát lớn, phương Ly 篱☲ Đầm sen, Ô Kim Liên, Văn Miếu, (hồ bảy mẫu kiềm chế sự bốc lên của Ly hoả)
Phương Khôn 坤☷ có làng Thịnh Hào, Cầu Giấy, phương Đoài 兌☱ có Nhất trụ, đền Voi Phục, làng Ngọc Hà. Đó là phong thuỷ xưa như vậy:
CÒN PHONG THUỶ HIỆN TẠI:
1-   Về âm dương:
·        Dương khu Sóc Sơn ở phía Bắc
·        Âm  là  khu phía Nam Hà Nội giữa âm & dương chia  cắt nhau bởi sông Hồng.
-         Về sông: Hà nội ảnh hưởng trực tiếp do 4 con sông; sông Hồng, sông Đuống, sông Nhuệ, sông Đáy.
-         Về núi: c0ó núi Hàm Lợn ở Sóc Sơn đỉnh là đỉnh  chân chim cao hơn 440 mét Ba Vì, Tam Đảo.
2-   Về bát quái:
·        Càn 乾☰ các trường huấn luyện của Quân Đội.
·        Khảm 坎☵ núi Sóc Sơn (quan trọng là có đền Sóc, Cổ Loa & sân bay Nội Bài.
·        Cấn 艮☶ có chùa Đại Lâm, Bát Đế đền Đô, làng Đồng Kị Tiên Sơn (thủ công mỹ nghệ)
·        Chấn震☳  từ Gia Lâm đến Như Quỳnh có chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Phù Khê, hiện tại đang phát triển mạnh các khu công nghiệp.
·        Tốn 巽☴ theo quốc lộ 5 ngoặt xuống đông nam có sự đầu tư lớn phát triển khoa học kỹ thuật.
·        Ly 篱☲ từ Thường Tín đến Hà Nam.
·        Khôn坤☷khu Hoà Lạc có các chùa như chùa Thầy, Trăm gian, khu liên hợp thể thao Mỹ Đình.
·        Đoài 兌☱ có Nhất Trụ, Bát Thát, Đại Yên, Liễu Giai, chùa Hà, tất cả đều nằm trên trục đường thẳng từ điện Kính thiên về phía Tây.
Như vậy Hà Nội có hệ thống chùa dọc theo hai phương Tây và Đông, bắc có núi non bao bọc, nam là đồng bằng từ Nam Định chạy ra đến biển đông tạo thành một vùng trũng, Hà Nội như cái ngai trong lòng chảo thu khí trường của vũ trụ , vậy mới gọi  là ĐỊA LINH QUY TỤ HIỀN TÀI.
Hà Nội là  Thủ Đô, trái tim của cả nước, niềm tự hào dân tộc. Tuy Hà Nội hiện nay có rộng lớn hơn xưa kia rất nhiều nhưng vẫn giữ được hình giáng tương ứng với  bát quái, vậy thì dù Hà Nội rộng hay hẹp cũng chỉ làm tăng thêm mức độ quy mô  mà thôi.
Hình dáng Việt Nam ta là hành thuỷ, những con số theo dịch lý
1 + 9 = 10 : 2 = 5 vì vậy sẽ có những biến động lớn có tính lịch sử, bước ngoặt ứng  vào các năm có số 1, số 9, số 5, số 0 .
Phần này các bạn tự chiêm nghiệm
Năm 1010 chiếu rời đô
Năm 1911 Bác Hồ đi tìm đường cứu nước
Năm 1930 thành lập Đảng
Năm 1890 ngày sinh Bác Hồ
Năm 1941 Bác hồ  về nước
Năm 1945 Bác đọc tuyên ngôn độc lập
Năm 1969 Bác mất
Năm 1975 Giải phóng haòn toàn miền nam
Năm 2011 lần đầu tiên Việt nam bầu cử cả 4 cấp cùng một ngày.
                                                                                       Huyền Phúc


BuildBN ST

Phong thủy hoàn hảo cho bàn làm việc


Theo phong thuỷ, giữa bàn là vùng liên quan tới sức khoẻ, cần giữ vùng này sạch sẽ. Phần phía sau, góc bên trái là vùng giàu sang hãy đặt 1 bao đỏ đựng 9 hoặc 3 đồng tiền.
Các vật phẩm cát tường mang ý nghĩa khai vận mà bất kỳ ai cũng có thể sử dụng và phương pháp bài trí khi đặt trên bàn làm việc:
1. Hình tượng ba loài vật là Tỳ Hưu, Kỳ Lân, Long Mã phải đặt hướng đầu về phía của chính hoặc cửa sổ vì tương truyền ăn tài khí của bốn phương, trừ tà, chiêu tài, hoạch tài…
Tỳ hưu (còn được gọi là: Tịch tà, Thiên lộc) là loài thú có 1 sừng, mình có lông dài, xoắn quăn có nhiều công dụng trừ tà (tịch tà), mang lại tài lộc (thôi tài)… dễ sử dụng.
Nghê: không có sừng, lông uốn xoăn, hàm răng nanh sắc nhọn thường được sử dụng để trấn sát, trừ tà, mang tính bảo vệ chủ nhân là chính. Nếu để trên bàn, con đực đặt bên trái, con cái đặt bên phải (từ ghế ngồi nhìn ra bàn).
Long Mã (ngựa rồng) là sự kết hợp của hai hình tượng ngựa và rồng với đầu rồng, thân ngựa biểu thị khát vọng lớn, tinh thần cạnh tranh, sức khoẻ tốt, tính kiên trì và danh tiếng mang tính hỗ trợ cho chủ nhân.
Tỳ hưu nhiều công dụng trừ tà
2. Hình tượng ba loài vật: Tam cước thiềm thừ, voi, cá (cá chép hoặc long ngư) thì ngược lại phải quay đầu hướng vào nhà, không hướng ra của sổ hay cửa chính.
Tam cước thiềm thừ (cóc ba chân) (còn gọi là Kim thiềm) là một loài cóc có ba chân, linh thú này trên lưng cõng Bắc đẩu thất tinh, đầu đội thái cực lưỡng nghi, chân đạp nguyên bảo sơn miệng ngậm hai xâu tiền, theo tương truyền linh thú này thổ tiền nên phải quay đầu vào.
Cá chép, long ngư (cá đầu rồng) là hình tượng mang tài lộc sự giàu sang, tiền bạc và sự phát triển mạnh mẽ…
Voi là hình tượng biểu trưng cho sự vững mạnh, linh thú này là một trong bảy báu vật của đạo Phật, tiếp thêm sưc mạnh và quyền lực cho chủ nhân…
Ngoài ra còn có các loài vật khác như tê giác tượng trưng sức mạnh (quay đầu ra), lạc đà tượng trưng cho sự kiên nhẫn và khả năng kiềm chế cũng như khả năng tích trữ, cầm cự (quay đầu vào)…
Riêng hình tượng loài rùa hay hình tượng quy long (rùa đầu rồng), dù đây là vật phẩm cát tường biểu thị cho khát vọng, trí thông minh, địa vị, tuổi thọ, sự hoà thuận nhưng tuyệt đối không nên bài trí trên mặt bàn làm việc. Chúng chỉ có thể bầy trên bàn làm việc khi kết hợp với hình tượng gậy như ý, đồ hình bát quái, lưỡng nghi.
Các vật phẩm cát tường:
Như ý cát tường: là một vật có hình dáng cong mà phần đầu lớn, xưa vốn là vật để gãi lưng, về sau thành biểu tượng “Như ý” có nghĩa là thỏa mãn ước nguyện và việc gì cũng như ý muốn. Trong phong thủy, nó tượng trưng cho cơ hội thăng tiến nhanh, được sự ủng hộ từ cấp trên, cải thiện sự giao tiếp và kỹ năng thuyết phục tạo sự thuận lợi trong nghề nghiệp của bạn.
Cầu thủy tinh, ngọc, thạch anh là những khối chất đặc hình cầu mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt, trôi chảy và mở mang mối quan hệ, giao tiếp. Cầu thủy tinh cũng đem lại sự tôn trọng, quyền uy của một người quản lý. Cầu thủy tinh không những đem lại sự thông minh, của cải, tài lộc mà còn có tác dụng chế ngự hung khí đem lại bệnh tật và thị phi đấu đá do hai sao Thất Xích và Cửu Tử gây ra. Đặc biệt với các nhà doanh nghiệp, cầu thủy tinh đảm bảo công việc kinh doanh trôi chảy, phát đạt, đó cũng là lý do tại sao rất nhiều logo của các công ty làm ăn phát đạt có hình quả cầu.
Cầu thủy tinh được xem là vật phẩm cát tường trong phong thủy
Bộ bàn đá thất tinh với 6 viên đá được xếp trên một trận đồ bao quanh 1 viên đá lớn hơn tượng trưng cho ngôi sao David quyền năng – ngôi sao có 6 đỉnh nhọn là sự kết hợp vận dụng các yếu tố hình học sẽ tạo nên cũng như khuếch tán những năng lượng tốt, điều hòa dòng khí, tạo sự hòa thuận, đoàn kết và khả năng bảo hộ chủ nhân. Vị trí tốt nhất là đặt nó ở phía Đông Nam bàn làm việc.
Sau đây là hình tượng các vật phẩm trong 12 con giáp hợp với bạn:
Bày biện trên bàn làm việc:
Phong thuỷ học cho rằng, người ngồi làm việc phải được tiếp nhận sinh khí từ vũ trụ thì mới minh mẫn trong điều hành công việc. Để tăng khả năng tiếp nhận sinh khí từ vũ trụ, trên bàn làm việc phải đặt cột thuỷ tinh trong không màu, vật dụng này được phong thuỷ gọi là tháp văn xương. Nếu không có, bạn thay thế bằng một cột thủy tinh, có tác dụng ngưng tụ năng lượng trong không gian về một điểm, tăng khả năng tư duy.
- Chồng hồ sơ bên trái nên cao hơn bên phải.
- Nên đặt điện thoại ở các hướng tốt, hợp với bạn (Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam dành cho người Tây tứ mệnh và Đông, Đông Nam, Bắc, Nam dành cho người Đông tứ mệnh).
Năng lượng tích cực cũng như những điều may mắn sẽ luôn đến với bạn nếu trên bàn làm việc bạn đặt những vật tượng trưng cho Ngũ hành:
- Hướng Bắc: tách trà, ly nước hoặc cà phê…
- Góc Đông Bắc cái chặn giấy bằng thuỷ tinh hoặc pha lê.
- Phía Đông đặt một bình hoa tươi ở bàn làm việc, giúp tạo năng lượng dương rất tốt, khuyến khích bạn hăng say làm việc.
- Góc Đông Nam của bàn làm việc đặt một cây nhỏ tươi tốt để thu hút tài lộc và sự thăng tiến. Tuy nhiên cần tránh cây xương rồng hoặc các cây có lá sắc nhọn. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và xum xuê. Nếu cây chết, hãy bỏ ngay và thay bằng một cây khác. Góc Đông Nam của bàn làm việc cũng nên đặt các tượng giả cổ màu đỏ hoặc màu tía tượng trưng cho sự giàu có.
Bàn làm việc nên có hoa tươi để lưu thông không khí
- Góc Tây Nam của bàn làm việc đặt pha lê tròn hoặc quả cầu thuỷ tinh trơn để tạo sự hoà đồng giữa bạn với các đồng nghiệp.
- Hướng Nam của bàn làm việc đặt các loại đèn nhằm cung cấp năng lượng chủ về tên tuổi và danh tiếng cho bạn
- Hướng Tây hoặc Tây Bắc của bàn làm việc nên đặt các thiết bị văn phòng bằng kim loại (như máy tính), nhớ rằng phải đặt vật thấp ở bên phải và vật cao ở bên trái. Ngoài ra phía Tây có thể trang trí thỏi vàng phong thuỷ.
Theo phong thuỷ, giữa bàn là vùng liên quan tới sức khoẻ, cần giữ vùng này sạch sẽ. Phần phía sau, góc bên trái là vùng giàu sang hãy đặt 1 bao đỏ đựng 9 hoặc 3 đồng tiền. Phần phía sau, góc bên phải là vùng quan hệ, đặt các vật thể thành từng cặp như hai đóa hoa tươi hoặc hai bức tượng nhỏ.
Cuối cùng, cần nhớ rằng, quan trọng hơn hết là bàn làm việc phải thật sự sạch sẽ, gọn gàng, thông thoáng, để sinh khí luân chuyển, tránh các dòng khí bị ngưng trệ. Riêng điều đó thôi, đã tạo cho ta một cảm giác thật dễ chịu, một tinh thần thật sảng khoái. Và tinh thần phải sảng khoái thì mới hoàn thành tốt công việc.

Build BN ST 

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Nhận biết 05 dấu hiệu của đàn bà vượng phu

Tình cờ đọc được bài viết này bên Blog Minh Phước, mình rất thích, xin đưa lên đây, để các bạn đọc, nhất là bạn đọc nữ đọc và chiêm nghiệm. Với mình, những kiến thức của người đời, của sách vở bao giờ cũng là “người thầy” tốt nhất dạy cho mình học và nhớ lâu. Những vẻ đẹp đó khiến cho mình luôn phải biết “dọn mình” để hoàn thiện, để sống thiện lương và tử tế :D

Còn gì hạnh phúc và ấm áp hơn với người đàn bà là được chồng con, bạn bè, ngoài sự yêu thương, còn là quý trọng, nể trọng về phẩm cách, nhân cách. Đó có lẽ là phần thưởng giành cho sự hy sinh thầm lặng suốt đời của họ :P
———
20140426-011332.jpg
Từ nhiều đời nay, khi chọn bạn đời, phái mạnh thường đề cao tiêu chuẩn ‘vượng phu ích tử’ ở người phụ nữ. Càng giàu có, quý ông càng chú trọng điều này.
Vậy, như thế nào mới đạt đủ tiêu chuẩn của người đàn bà “vượng phu ích tử”? Ngoài những đặc điểm nhận dạng về nhân tướng học, biểu hiện tính cách cũng là yếu tố vô cùng quan trọng giúp quý ông nhắm trúng người phụ nữ tuyệt vời này.
1 Tâm thái ôn hòa, xem tình cảm là trên hết
Thứ tình yêu thuần chất giờ đã không còn giá trị với nhiều cô gái trẻ hiện nay. Họ đặt nặng vấn đề tài chính, khiến tình yêu nhuốm màu vật chất. Nhưng người phụ nữ vượng phu thường không có cách nghĩ thực dụng ấy. Với họ, yêu là yêu, chỉ đơn thuần có vậy.
Khi ở bên chàng trai của mình, họ thường có tâm thái bình yên ôn hòa, biểu hiện thuần khiết chân thực và không tạo cho mình bất kỳ áp lực tiền bạc, vật chất nào. Những cô gái có bản chất lương thiện, ôn hòa như vậy thường đem lại cuộc sống nhẹ nhàng, hạnh phúc cho người đàn ông của mình. A-đam càng công thành danh toại, càng muốn có bên mình một người vợ thảo hiền như thế.
2.Con mắt tinh đời
Nhiều chị em vì yêu nhầm, cưới nhầm những đối tượng không lý tưởng, nên tổn thương sâu sắc về tinh thần. Phụ nữ vượng phu thì khác, khi yêu, họ chân thành, mộc mạc nhưng lại rất cẩn trọng, thông minh. Họ biết đặt tình cảm làm trọng để lựa chọn người mình yêu, họ không xem vật chất tiền tài là thước đo của hạnh phúc.
Đặc biệt hơn thế, phụ nữ vượng phu rất có con mắt tinh đời. Họ nhanh nhạy nhận ra những phẩm chất ưu tú, tính cách trung thực chất phác và trọng tình trọng nghĩa của người mình yêu. Thực tế cho thấy, những quý ông hội đủ các yếu tố này sau khi kết hôn thường hết mực yêu thương, chăm sóc vợ con.
3 Can tâm chịu khổ, không gây áp lực cho chồng
Trong cuộc sống lứa đôi, những người phụ nữ vượng phu rất khéo léo và tâm lý khi không tạo áp lực cho chồng. Họ sẽ chẳng “làm mình làm mẩy”, than vãn với đức lang quân rằng người này có nhẫn mới, người kia có túi xách thời trang sành điệu hay váy áo đắt tiền.
Dù chồng thành công hay thất bại trong sự nghiệp, họ cũng luôn biết tạo cảm giác ấm áp, thoải mái cho ông xã khi ở nhà. Một nụ cười ấm áp, một bữa cơm gia đình ấm cúng với những món khoái khẩu của chồng (dù đang lúc tài chính khó khăn) là những cách thức giản đơn mà tuyệt vời của các cô nàng vượng phu để sưởi ấm trái tim chồng mình.
Vì họ không màng vật chất, không tham lam tiền bạc, vì họ bao dung và chân thành, người chồng sẽ thêm vững lòng, an tâm công tác khi tìm thấy cho mình nơi trú ẩn bình yên là vợ.
4 Luôn động viên chồng vượt qua sóng gió
Người làm kinh doanh không tránh khỏi những giai đoạn chông gai, thử thách, thậm chí lụi bại thất thoát. Điểm đáng quý ở những phụ nữ vượng phu là luôn tìm cách và có thể ngăn cản mọi áp lực có thể xảy ra với chồng. Họ luôn ủng hộ một nửa của mình, giúp chàng có thêm sự tự tin, ý chí và sức mạnh để bước tiếp.
Không chỉ có vậy, nàng cũng biết vận động sức mạnh tập thể từ cha mẹ, anh em và họ hàng một cách khéo léo để động viên chồng. Một khi đám đông không còn tin tưởng anh ấy vì những thất bại liên tiếp trong kinh doanh, nàng vẫn kiên định rằng lựa chọn bạn đời của mình là sáng suốt.
5 Trợ thủ đắc lực của chồng
Cuộc đời của những phụ nữ vượng phu chắc chắn sẽ kinh qua nhiều “bước nhảy” quan trọng. Trước khi chồng thành đạt, có thể họ chỉ là người có trình độ văn hóa thường thường bậc trung, là một bà nội trợ làm tròn bổn phận chăm sóc chồng con. Nhưng một khi sự nghiệp lẫn tiền tài của ông xã tới hồi thăng hoa, đàn bà vượng phu sẽ “trỗi dậy” và phát tiết tác dụng của mình. Họ sẽ ở bên đức lang quân, thu nạp mọi thứ có thể để trở thành một trợ thủ đắc lực, trợ giúp chồng trong việc kinh doanh. Ở ngoài, họ ngoại giao có duyên, đầy thuyết phục và trở thành một bà chủ thông minh, lanh lợi.
Ở nhà, họ vẫn làm tròn bổn phận của dâu hiền vợ thảo khi chăm chút chu đáo cho con, thu vén cửa nhà tươm tất. Người đàn bà dù xuất chúng tới đâu vẫn phải là hậu phương vững chãi cho chồng. Chính vì lẽ ấy, phụ nữ vượng phu rất biết cách hài hòa giữa sự nghiệp và gia đình để cuộc sống lứa đôi không bao giờ tắt lửa.
————

BuildBN ST

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

MUA NHẪN CƯỚI PHÙ HỢP VỚI BẢN MỆNH THEO PHONG THỦY




Hôn nhân là việc trọng đại của đời người, việc chọn cho mình một người vợ/chồng phù hợp là rất khó và để sống cùng nhau hạnh phúc lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, việc chọn cho mình một cặp nhẫn cưới phù hợp với vợ/chồng theo phong thuỷ hết sức quan trọng.

Nhẫn thuộc Kim:Nhan cuoi thuộc Kim thường có hình dạng tròn, nhẫn trơn không có mặt lồi lên nạm bằng đá quý. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình tròn có màu vàng, trắng. Nhẫn phải được thiết kế đơn giản với màu trắng hoặc màu vàng và chất liệu thường làm từ vàng tây, bạch kim, bạc. Nhẫn thuộc hành Kim hợp cho những người mạng Thuỷ (sinh năm 1974, 1975, 1982, 1983,…). Ngũ hành thuộc Kim làm cho tìnhyêu thêm bền vững, tình nghĩa vợ chồng gắn kết lâu dài, lợi cho sự nghiệp, kinhdoanh, buôn bán.Chiếc nhẫn cưới có ý nghĩa thiêng liêng đối với mỗi cặp uyên ương. Sự kết hợp giữa kim cương, vàng và bạch kim sẽ tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho mỗi chiếc nhẫn này.

Nhẫn thuộc Mộc: Nhẫn cưới thuộc Mộc thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, vặn chéo, hoặc cách điệu thành hình chữ nhật, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, hìnhchữ L, có nạm những viên đá quý màu xanh. Trên thân nhẫn có thể gắn kết nhữngviên đá quý hình có màu xanh. Nhẫn thuộc hành Mộc hợp cho những người mạng Hoả (sinh năm 1978,1979,1986,1987,…). Ngũ hành thuộc Mộc làm cho tình yêu thêm chan hoà, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, thuận hoà, lợi cho con cái.

Nhẫn thuộc Thuỷ:Nhan cuoi thuộc Thuỷ thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, thân nhẫn mảnh khảnh, có thểcó dạng hình chữ S, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, có nạm những viên đá quý màu xanh tím, xanh đen, màu lục hoặc màu đen. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu sẫm. Nhẫn thuộc hành Thủy hợp cho những người mạng Mộc (sinh năm 1972,1973,1980,1981,1988,1989…). Ngũ hành thuộc Thuỷ làm cho tình yêu thêm chan hoà, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, thuận hoà, lợi cho học vấn và sự nghiệp.

Nhẫn thuộc Hoả:Nhan cuoi thuộc Hoả thường có hình dạng nhọn, được cách điệu với những nét nhô cao, thân nhẫncó thể cắt chéo các cạnh, có thể có dạng hình chữ V, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tam giác, đa giác, có nạm những viên đá quý màu hồng, đỏ hoặc màu da cam. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có gam màu đỏ, hồng. Nhẫn thuộc hành Hoả hợp cho những người mạng Thổ (sinh năm 1976,1977,1990,1991,…). Ngũ hành thuộc Hoả làm cho tình yêu thêm nồng cháy, ấm áp, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, lợi cho danh tiếng.Nhẫn thuộc Thổ:

Nhẫn cươis thuộc Thổ thường có hình dạng vuông, được cách điệu với những nét vuông vắn, thân nhẫn có thể làm hình vuông, có thể có dạng hình chữ T, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình vuông, chữ nhật, có nạm những viên đá quý màu vàng. Trên thân nhẫn có thể gắnkết những viên đá quý có gam màu vàng, xám, màu ghi. Nhẫn thuộc hành Thổ hợp cho những người mạng Kim (sinh năm 1984,1985…). Ngũ hành thuộc Thổ làm cho tìnhyêu thêm bền vững, dài lâu, tình cảm vợ chồng thêm những thuận hoà, lợi cho con cái.Đôi khi có những cặp vợ chồng tương khắc nhau về bản mệnh,ví dụ người nam sinh năm 1978 tuổi Mậu Ngọ, thuộc mạng Thiên Thượng Hoả, lấyngười nữ tuổi Nhâm Tuất (1982) thuộc mạng Thuỷ. Như vậy mệnh nữ Thuỷ khắc mệnh nam Hoả là sự bất lợi. Để hoá giải nên chọn nhẫn cưới thuộc hành Mộc vì Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả sẽ hoá giải được thế tương khắc này.


Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN CHO CÁC PHẬT TỬ MỚI QUY Y TAM BẢO

Khi đức Phật mới thành đạo, Ngài dạy:

" Cửa vô sanh đã rộng mở
Ai có tai hãy nghe và
Dứt bỏ tà kiến mê lầm của mình "

LỜI NÓI ĐẦU

Chúng ta đương bị mê lầm thống khổ nên chúng ta tìm đến đấng Từ bi Giác ngộ để nương tựa, hầu dứt trừ đau khổ, hưởng sự an vui. Đức Phật dạy ai chí thành quy y Phật, Pháp, Tăng sẽ khỏi đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các nơi tà kiến hung ác.
Phàm mỗi khi làm lễ quy y, người Phật tử đều được Bổn sư truyền cho phép Tam quy, Ngũ giới và những điều căn bản khác.
Nhưng làm sao trong một lần mà người nghe có thể thu nhận và nhớ kỹ tất cả những điều mà bổn sư đã nói. Nó cần được nghe, được nói, hoặc đọc đi đọc lại nhiều lần mới có thể không quên.
Vả lại trong đời sống thường nhật, phần đông các Phật tử phải lăn lộn nhiều, vất vả lắm trên địa hạt sinh nhai, không rảnh thời giờ để học hỏi hết những điều mình cần phải học, phải làm cho đúng với tư cách một tín đồ đạo Phật.
Nên ở đây chúng tôi soạn ra tập tài liệu này gọi là Những điều căn bản cho các Phật tử mới quy y Tam Bảo để giúp có một sự hiểu biết căn bản khả dĩ hướng dẫn bước tu tiến, không đi sai với mục đích của Đạo.
Chúng tôi mong tập tài liệu này được phổ biến sâu rộng trong mọi tầng lớp Phật tử tại gia. Vậy yêu cầu quý vị cho truyền bá đến tận nơi các Phật tử chưa có để họ được học và thực hành.
Đó là điều lợi ích chung mà chúng tôi hằng mong muốn.
Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây
Chín phẩm liên hoa là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh
Bồ tát bất thối làm bạn lữ.

I. SƠ LƯỢC VỀ MỤC ĐÍCH THỊ HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Phật xuất hiện nơi thế gian này không phải vì danh, vì lợi, cũng không phải để ngồi trên ngai vàng mà cai trị bốn châu thiên hạ. Mà với mục đích làm cho chúng sanh đều được giải thoát vòng sanh tử luân hồi đau khổ, giác ngộ như Ngài.
Trong kinh Pháp hoa đã nói: "Như Lai xuất hiện nơi thế gian này với mục đích làm cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến". Nhưng vì chúng sanh căn cơ cao thấp không đồng, cho nên, giáo pháp của ngài chia ra từng bực khác nhau mà bước đầu và căn bản là Tam quy, Ngũ giới: tam quy để tạo lòng chánh tín, ngũ giới tạo đức hạnh tốt lành; từ đó mà tiến dần lên bước đường tu học đưa đến niết bàn giải thoát.

II. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI THỊ HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Giáo chủ của đạo Phật chúng ta là đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Trong vô lượng kiếp về trước Ngài cũng là một chúng sanh như ta. Nhưng Ngài đã sớm giác ngộ nỗi khổ đau của chúng sanh, nên Ngài đã thành Phật.
Trong kiếp hiện tại, vì muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử, cho nên, cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm (nhằm năm 624 trước Tây lịch), Ngài đã giáng sanh làm vị thái tử tên là Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da nước Ca-tỳ-la-vệ thuộc Bắc Ấn Độ.
Lúc còn làm thái tử, Ngài thông minh đỉnh ngộ, tài trí hơn người; hiếu, đức đầy đủ. Ngài rất được vua cha cùng tất cả mọi người thương mến và cung cấp cho đủ mọi thứ sung sướng trong đời. Nhưng mục đích xuất thế không phải để hưởng sự sung sướng vật chất. Cho nên, Ngài đã từ bỏ những vinh hoa phú quý của cuộc đời vương giả, vượt thành, xuất gia tìm đạo Giác ngộ.
Qua sáu năm khổ hạnh thực hành đủ các pháp tu, sau rốt, với 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc Bồ-đề, Ngài đã chứng ngộ và thành Phật.
Sau khi giác ngộ, Ngài đi khắp nơi trong xứ Ấn Độ để thuyết pháp độ sanh. Số người được độ bởi giáo pháp của Ngài nhiều không thể kể xiết. Năm 80 tuổi, cơ duyên độ sanh viên mãn, Ngài nhập niết-bàn nơi rừng ta-la song thọ xứ Câu-thi-na.
Hôm nay nhờ chút duyên lành, chúng ta được gội nhuần trong biển pháp của Phật, biết đường lối tu tập để cầu thoát khổ. Vậy chúng ta phải cố gắng tu tập hơn và đem hết năng lực để hộ trì chánh pháp, hầu mong đền đáp công ơn cao dày của Ngài.

III. TAM QUY

Tam quy là gì? Là quy y Tam Bảo. Tức là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn, phước, trí đầy đủ , bên trong không bị các phiền não hoặc nghiệp làm rối loạn, bên ngoài không bị hoàn cảnh thuận, nghịch , làm trở ngại. Được tự tại giải thoát.
Pháp là giáo thuyết vô thượng của Phật. Nghĩa là những phương thức, đường lối Phật nói ra cho chúng ta tu tập để được giác ngộ và giải thoát như Ngài.
Tăng là những vị xuất gia chân chính, luôn luôn y theo giáo pháp của Phật mà tu tập, đồng thời đem giáo pháp ấy truyền bá trong nhân gian, hầu mong tất cả mọi người đều được giác ngộ.
Phật, Pháp, Tăng (tam bảo) có đủ công năng tự giác ngộ và giác ngộ cho tất cả mọi người như thế, nên chúng ta cần phải chí thành quy y.
Chữ quy y có nghĩa là quay về để nương tựa. Ví như đứa con dại từ lâu xa cha mẹ đi lưu lạc xứ người, hôm nay tự thấy đời mình bơ vơ đau khổ, hồi tâm trở về nương tựa cha mẹ để được sự nuôi nấng an ủi.
Quy y còn có nghĩa bỏ trái trở về phải, bỏ ác trở về thiện. Xoay mê mờ trở về giác ngộ, ngược chiều sanh tử khổ đau xoay về niết-bàn an lạc.
Nhưng muốn cho việc tu hành của mình có kết quả thiết thực, người Phật tử cần phải chí tâm và duy nhất về sự quy y. Nghĩa là:
- Sau khi quy y Phật rồi, không quy y thiên, thần, quỷ, vật. Bởi những vị ấy còn là chúng sanh ở trong tam giới, vẫn bị sanh tử luân hồi, chưa được hoàn toàn giải thoát như Phật.
- Sau khi quy y Pháp rồi, không quy y ngoại đạo tà giáo. Vì những giáo thuyết ấy chưa được chu toàn hướng dẫn đến chỗ giác ngộ hoàn hảo.
- Sau khi quy y Tăng rồi, không quy y thầy tà bạn ác. Vì những người ấy thường đem lại cho ta những suy tưởng lỗi lầm dẫn đến đau khổ cho cuộc sống.
Vậy các Phật tử nên thận trọng và chín chắn trong vấn đề quy y này.

IV. NGŨ GIỚI

Ngũ giới là năm cấm giới của Phật .
Người Phật tử tại gia sau khi lãnh thọ pháp Tam quy rồi cần phải tiếp thọ năm cấm giới. Năm cấm giới này do Phật thân chế ra với mục đích là ngăn ngừa những lời nói và hành động bất thiện, phi pháp của chúng ta. Nó là căn bản để làm người, mà cũng là bước thang đầu tiên để chúng ta hoàn thành đạo quả vô thượng Bồ-đề.
Năm cấm giới ấy là:
1. Không sát sanh, hại vật.- Tất cả các sanh vật đều tham sống sợ chết, biết đau khổ, lo buồn như ta. Để dứt oan nghiệp vay trả nhiều đời nhiều kiếp và để trau dồi lòng từ bi đối với tất cả sanh vật, cho nên, chúng ta không sát hại.
2. Không trộm cướp lường gạt.- Tất cả của cải mọi người đều do lao tâm nhọc sức làm ra mới có. Để cho họ yên vui sung sướng hưởng lấy của ấy và để khỏi chịu cảnh rượt bắt truy lùng kiếp này hoặc quả báo làm thân tôi mọi kéo cày mang nặng nhiều đời kiếp về sau, chúng ta không đem tâm trộm cướp.
3. Không tà dâm bất chính.- Để tránh cảnh nhà tan cửa nát trong xã hội, để xây dựng êm đẹp hạnh phúc của gia đình, và để giảm bớt cội rễ sanh tử khổ đau Cho nên, chúng ta không tà dâm bất chính.
4. Không nói dối.- Muốn cho tất cả mọi người đều sống an vui tin cẩn, hòa thuận, không có sự thù hiềm ganh ghét và hãm hại lẫn nhau, chúng ta không nói lời láo xược, không nói lời đâm thọc, không nói lời thêu dệt và không nói lời hung dữ.
5. Không uống rượu.- Người rượu chè say sưa thì mất hết giống trí tuệ. Đạo nghiệp không bao giờ thành mà phải đọa vào địa ngục tối tăm đau khổ. Chúng ta muốn cho đạo nghiệp mau thành, trí huệ chóng khai phát, cho nên, chúng ta không rượu chè say sưa.
Trong năm cấm giới này, người Phật tử tại gia khi làm lễ quy y có thể lãnh thọ bao nhiêu và giới nào, tùy khả năng mà phát nguyện. Nhưng khi đã lãnh thọ thì dù có tan mất thân mạng cũng quyết không hủy phạm. Vì nó là thuyền đưa ta đến chỗ giải thoát. Ví như người qua biển, khi chưa đến bến thì quyết không rời thuyền.
Tam quy và Ngũ giới là nền móng căn bản cho sự tu trì của người Phật tử tại gia. Ngoài ra, còn cần phải có những trợ duyên thiết yếu giúp cho công hạnh tu trì chóng đến kết quả. Những trợ duyên thiết yếu đó như dưới đây.

V. ĂN CHAY

Ăn chay là ăn những rau trái dưa đậu mà không ăn thịt, cá, tôm, cua v.v... Vì ăn thịt, cá, tôm, cua ... tất nhiên phải làm tổn hại sinh mạng của chúng. Như ta đã biết tất cả chúng sanh đều tham sống sợ chết, cũng thích sung sướng và sợ đau khổ. Vì thế người Phật tử thể theo lòng từ bi của đức Phật, không nỡ giết hại chúng sanh để nuôi sống thân mạng mình.
Tùy theo khả năng và sự phát nguyện, chúng ta có thể ăn những trai kỳ như sau: Mỗi tháng ăn chay
Hai ngày (nhị trai) - Mồng một và rằm
Bốn ngày (tứ trai)- Ba mươi, mồng một, 14 và rằm
Sáu ngày (lục trai)- Mồng một, 14, rằm, 18, 23 và 30
Mười ngày (thập trai)- Mồng một, mồng tám, 14, rằm, 18, 23, 24, 28, 29và 30
Mỗi năm ăn chay ba tháng (tam nguyệt trai) - tháng Giêng, Năm và tháng Bảy
Hoặc ăn chay những ngày vía Phật và ăn chay trường như các vị xuất gia thì càng quý.
Nên nhớ: Những ngày ăn chay thì chúng ta bặt không nghĩ đến chuyện cá, thịt. Nếu làm thêm được những việc thiện như bố thí, phóng sanh thì phước biết chừng nào.

VI. NIỆM PHẬT

Niệm Phật là nhớ nghĩ đến đức Phật. Nhớ nghĩ đến các đức tính từ bi, trí huệ và giải thoát. Nhớ nghĩ đến các đức tướng thanh tịnh trang nghiêm không ai sánh bằng. Nhớ nghĩ đến các công hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn của Phật. Hầu đem áp dụng vào cuộc sống của mình và mọi người cho được hữu ích; mong tất cả đều giải thoát và giác ngộ như Phật. Đây là một pháp môn trong muôn ngàn pháp môn mà Phật đã nói ra cho hàng Phật tử tu tập.
Niệm Phật có nhiều cách. Như nhớ nghĩ hình dung đức tánh hoặc nhẩm đọc danh hiệu Phật.
Trong kinh Di Đà, đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni có dạy: "Cách mười muôn ức cõi Phật về phương Tây có thế giới tên là Cực Lạc và hiện thời có đức Phật tên là A Di Đà đang thuyết pháp độ sanh ... Nếu có chúng sanh nào nghe lời nói này đem lòng tin chắc, phát nguyện muốn vãng sanh về nước Ngài và đồng thời hàng ngày chí thiết chấp trì danh hiệu của Ngài đến chỗ nhất tâm bất loạn thì sau khi lâm chung sẽ được vãng sanh về nước Ngài."
Nhưng tại sao chúng ta lại mong được vãng sanh về Thế giới cực lạc của đức Phật A Di Đà?
Vì ở thế giới đó không có sự khổ sanh, già, bệnh, chết và những nỗi thống khổ như thế giới mà chúng ta đang sống đây. Trái lại, chỉ thuần những sự an vui tự tại, luôn được gần gũi các vị Bồ tát và luôn được nghe Pháp âm của Phật. Mau thành đạo, chứng quả. Vì thế nên chúng ta tha thiết mong muốn được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Ngài.
Về phương thức thực hành thì tùy theo hoàn cảnh và khả năng từng người. Như người không có nhiều thời gian rảnh rỗi, nên mỗi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng lúc thức dậy, thực hành theo phương pháp "Mười niệm" của ngài Từ Vân Sám Chủ sau đây: Trước bàn thờ Phật kính lễ ba lạy, tụng một bài kinh ngắn rồi lấy hơi dài chí tâm niệm "Nam mô A Di Đà Phật" không luận bao nhiêu câu, cứ mãn một hơi là một niệm, mười hơi là mười niệm. Kế thiết tha hồi hướng cầu vãng sanh Cực lạc. Rồi lễ Phật mà lui ra. Nếu ở chỗ không có thờ Phật thì quay mặt về hướng Tây cung kính xá rồi niệm và phát nguyện như trên. Trong lúc niệm phải buộc tâm nghe rõ tiếng niệm của mình không cho tán loạn. Hoặc người có thì giờ rỗi rãi thì niệm nhiều hơn tùy số mình định nhưng phải giữ cho thường, không nên bữa niệm bữa nghỉ.
Ngoài ra thường ngày, lúc đi đứng nằm ngồi hoặc làm việc, đi chơi, lúc nào cũng có thể thầm niệm; không nghĩ đến những chuyện xằng bậy khác. Niệm như vậy lâu dần, tịnh niệm nối luôn, vọng niệm tiêu trừ. Khi còn sống luôn tưởng niệm đến Phật thì tâm an ổn, được Phật hộ trì và lúc chết quyết được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Ngài.

VII. SÁM HỐI

Tất cả chúng ta từ hồi nào đến giờ vì mê lầm, không nhận rõ lý chân thật của các pháp nên đã gầy tạo vô lượng tội ác. Do đó, chúng ta bị sanh tử luân hồi chịu không biết bao nhiêu là đau khổ. Ngày nay muốn tiêu trừ tất cả tội ác mà chúng ta đã gầy tạo thì cần phải chí thành sám hối. Sám hối có nghĩa là ăn năn tất cả tội ác đã gây ra từ trước và nguyện từ nay về sau không gây tạo thêm nữa. Nếu y theo nghĩa này mà sám hối thì bao nhiêu tội ác bất luận nặng hay nhẹ đều có thể tiêu tan hết. Cũng ví như trong một căn nhà tối không biết bao lâu, nhưng khi đem vào một cây đèn sáng thì sự tối tăm ấy đều tiêu hết.
Phương pháp sám hối có nhiều. Nay nói phương pháp thông dụng nhất là "tác pháp sám hối": Mỗi tháng vào tối 14 và 30 ở các chùa hoặc niệm Phật đường, chư tăng cùng tín đồ tập họp đông đủ trước Tam Bảo chí thành lễ hồng danh các đức Phật để cầu xin sám hối. Đó là thực hành "tác pháp sám hối". Những ngày đó chúng ta nên về chùa mà cùng nhau chí thành sám hối.
Nhưng nên nhớ rằng đã sám hối như vậy thì từ ngày ấy về sau cần phải luôn giữ gìn ba nghiệp thân, miệng và ý không gây tạo lỗi lầm. Có như vậy, bao nhiêu tội từ trước mới tiêu trừ.
Phương pháp giữ gìn không tạo ba nghiệp tội thân, miệng, ý, không gì hơn là không hủy phạm năm giới cấm Phật dạy.

VIII. THỜ PHẬT

Tượng Phật ngự trị tại nhà để nhớ Phật tại tâm. Chúng ta ra vào hàng ngày chiêm ngưỡng để noi theo và luôn luyện tập những đức tánh cao quý sáng chói muôn thuở của Ngài như Từ bi, Hỷ xả, Hùng lực, Bình đẳng, Thanh tịnh, Trí huệ ...
Thờ Phật là thờ chân lý cao siêu tuyệt diệu. Không gì quý hơn có Phật ngự trị trong nhà.

IX. LẠY PHẬT

Đức Phật đã trải qua vô lượng kiếp tu hành, phước đức cao dày vô biên vô tận. Chúng ta lạy Phật sẽ được hằng sa phước đức, diệt trừ các phiền não nghiệp chướng. Lạy Phật để sửa mình, phục thiện, dẹp bỏ tánh cống cao ngã mạn. Lạy Phật để tỏ lòng tri ân sâu xa của mình đối với đấng cha lành đã cứu độ biết bao sanh linh ra khỏi trầm luân khổ hải.

X. CÚNG PHẬT

Hằng ngày chúng ta đốt một nén hương, dâng một cành hoa cúng Phật để tỏ lòng thành kính tri ân. Như thế, chúng ta sẽ tạo được phước đức trong hiện tại và ngày mai. Cúng Phật cần nhất là phải thành tâm. Câu chuyện cậu bé cúng đất sét cho Phật, bà già cúng đèn, người hành khất cúng muối ... đã chứng tỏ rằng với lòng thành thì vật nhỏ mọn cũng trở thành quý giá.

XI. TỤNG KINH

Tụng kinh để hiểu và nhớ lời Phật dạy, để ba nghiệp được thanh tịnh, thâu nhiếp vọng tâm, sanh định và phát huệ. Ăn uống để nuôi dưỡng cơ thể như thế nào thì tụng kinh để nuôi dưỡng tâm thần cũng cần thiết như thế. Phải tụng đọc rõ ràng, trang nghiêm và đúng đắn.

XII. BỔN PHẬN CỦA MỘT PHẬT TỬ TẠI GIA

Người Phật tử sau khi quy y Tam bảo rồi muốn xứng đáng mình là một Phật tử chân chính, cần phải nhận thức và thực hiện đúng với bổn phận của mình trên mấy phương diện sau đây:
a - Đối với Tam bảo: Phải có lòng tin Tam bảo đúng với ý nghĩa chân chính của nó và tin một cách vững chắc. Không để cho một thử thách cam go nào làm dao động. Không bao giờ làm điều gì có phương hại đến Tam bảo. Nhiệt tâm hộ trì và truyền bá chánh pháp. Nhất là ủng hộ các bậc xuất gia chân chính thực tâm tu học và hoằng dương đạo pháp.
b - Đối với xã hội: Dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng của đức Phật hết lòng phục vụ và xây dựng xã hội, làm cho cuộc sống giữa xã hội trở nên yên vui hòa hợp, không có sự tranh giành, ganh ghét hãm hại lẫn nhau.
c - Đối với gia đình: Phải hiếu thảo với cha mẹ. Hòa thuận vợ chồng, anh em họ hàng thân thích ... Làm thế nào cho tất cả mọi người trong gia đình đều trở về với Tam bảo và xây dựng gia đình trên nền tảng Phật hóa.
d - Đối với bản thân: Tinh tấn tu học đúng theo giáo pháp Phật dạy. Bỏ dần dục vọng, ích kỷ. Tập sống cuộc đời rộng rãi, giải thoát. Luôn luôn làm những điều lợi mình lợi người. Tin đúng nhân quả. Nhận rõ tất cả sự vật đều vô thường để không sanh tâm tham đắm. hướng cuộc đời đi đúng vào con đường giác ngộ.

 VÀI CHI TIẾT CẦN BIẾT

Ý nghĩa lá phái: Lá phái là vật để đánh dấu và tiêu biểu nhắc nhở trên bước đường tu tập của mình. Đem lá phái về, chúng ta nên treo ở một nơi nào dễ thấy. Hằng ngày nên nhìn đến nó và luôn luôn nhớ rằng năm ấy tháng ấy ngày ấy, chúng ta đã đến chùa ấy, cầu thầy ấy truyền cho Tam quy, Ngũ giới, pháp danh là gì.
Luôn luôn nhớ rõ pháp Tam quy Ngũ giới như trong phái đã dạy, để y theo đó mà tu trì. Có như vậy thời thiện căn mỗi ngày mỗi tăng trưởng, sẽ hưởng phước lạc an lành. Không phải việc gói cất kỹ đợi khi chết ép đem theo.
Bổn phận, tư cách đối với bổn sư và nơi mình đã đến quy y: Sau khi quy y rồi, chúng ta nên xem vị bổn sư là người thay mặt đức Phật và chúng Tăng truyền Tam quy Ngũ giới cho ta. Nơi đến quy y như là từ đường của chúng ta. Chúng ta nên thường về chùa để được gần gũi bổn sư, gần gũi các thầy mà học hỏi giáo lý. Có điều gì sai lầm nên về sám hối trước bổn sư và cầu xin chỉ dạy. Nên xem chúng ta là người con trong gia đình, người con của thầy, phải hết lòng cung kính và giúp đỡ các thầy về mọi phương diện.
Tư cách khi gặp các vị tăng già: Tăng già là tiếng chỉ chung cho các bậc xuất gia chân chính, tức là ngôi Tăng Bảo mà mình đã quy y. Cho nên, bất cứ ở một nơi nào khi gặp vị xuất gia, chúng ta phải cung kính chấp tay chào hỏi, xem như vị bổn sư của mình. Lúc đến chùa phải giữ trang nghiêm thanh tịnh. Đối với mọi người phải giữ lễ độ. Không mặc cảm tự tôn hoặc tự ty mà luôn tỏ thái độ xứng đáng mình là đệ tử của đấng Đại từ Đại bi Đại giác ngộ.

BuildBN ST